SPT những điều cần lưu ý khi thiết kế Cọc

Thảo luận trong 'Thiết kế CTB – DESIGN OFFSHORE PROJECT' bắt đầu bởi hoangtu, 30/12/20.

  1. hoangtu

    hoangtu Moderators Thành viên BQT

    Tham gia ngày:
    20/5/12
    Bài viết:
    670
    Đã được thích:
    46
    Điểm thành tích:
    28
    Trong thiết kế cọc có chỉ số khá quan trọng là SPT
    con số này ít được quan tâm khi thiết kế Jacket có thể cọc Jacket chủ yếu là cọc thép và ở xa bờ, địa chất tương đối ổn định
    Tuy nhiên, với những dự án gần bờ (Độ sâu nước < 10m) địa chất thường khá phức tạp, chỉ sổ SPT đc nêu ra như một chỉ dẫn rằng: mũi cọc sẽ dừng ở lớp đất đó hoặc phải sử dụng các biện pháp khoan để đưa cọc xuyên qua lớp đất để tiếp cận đc độ sâu thiết kế.
    dưới đây là một số trao đổi để cung cấp thêm cho ae thông tin về chỉ số SPT:
    1/ SPT là thí nghiệm kiểm tra độ chối cọc (thí nghiệm khoan thủng - standard penetration test) thì cứ căn cứ vào tính toán trong piling driveability analysis để xem lại và nếu độ chối vợt quá giới hạn của thiết bị đóng và kết cấu cọc thì đưa jetting tool vào để xuyên thủng tầng đó thôi.
    Có rất nhiều phương án để xử lý và cần phân tích ngay từ trong lúc tính toán và lựa chọn phương án thi công cho phù hợp.
    cần xem xét cả cấu trúc địa chất vị trí dự kiến đóng để đưa ra các phương án.
    2/sẽ phải đóng thử tăng năng lượng búa đóng trước. Nếu vẫn chối tương ứng nó dính vào nền sét cứng hoặc đá... do đó cần jetting tool khoan xuyên qua để thử đóng tiếp. Nếu khoan xuyên bằng jetting tool ko hiệu quả thì mới quyết dừng.
    nhưng khi đó chia ra 2 câu hỏi.
    1 là địa chất nếu lấy vị trí khác với vị trí bị chối thì tương ứng tính toán piling driveability của nhà thầu có thể cãi với CĐT đc vì địa chất thay đổi và nếu trong HĐ cover thì OK.
    2 nếu địa chất lấy vị trí đó và có thể hiện đất cứng vị trí đó thì cần xem lại tính toán có thể nhà thầu tính kém nên chọn cọc và búa kém ko đạt chất lượng. Hoặc Nhà thầu cố ý giảm hệ số tính toán để thuê búa và chế tạo cọc nhỏ hơn với y.c cần thiết
    3/Spt là thí nghiệm thực tế mà anh, nên có sao xài vậy. Cọc đóng có qua được lớp đất hay không thì mình phải tính Soil resistance to driving + khả năng đóng của búa
    Đó giờ em mới gặp 1 trường hợp là đóng conductor bị refusal, Giải pháp là khoan bỏ lớp đất trong lòng ống để giải phóng sức kháng của đất bên trong
    4/ bên onshore ngta có kinh nghiệm, với lớp đất có hệ số SPT => 50,thì phải sử lý hoặc là mũi cọc dùng ở đó hoặc là khoan để đưa cọc qua.
    Cái này điện gió gần bờ, WD có 10m nên em nghĩ sẽ áp dụng tiêu chuẩn trong bờ để thiêt kế? Chứ công trình biển xa bờ ko ai làm thí nghiệp spt, vì nó sai số cao.
    Nếu có số liêu cpt-u thì thiết kế sẽ chuẩn hơn, số spt này ko tin tưởng lắm đâu anh, nhiều khi dám sát khoan lơ là là mấy anh thợ khoan ma số ngay
    5/Thế thì đọc pile drivebility analysis đi, Còn thực tế thi công cứ set up búa rồi đóng thôi
    6/ Thứ 1: tính ultimate pile capacity (UPC) sẽ dựa theo:a. kết quả thí nghiệm trong phòng ; b. Dựa theo kết quả thí nghiệm trong phòng + kết quả PCPT (Cho Sand). Kết quả UPC theo pp 1.b đáng tin cậy hơn vì correlative trực tiếp từ giá trị cone resistance trong pcpt test, nhưng cần phải có kinh nghiệm để tính toán vì đây là pp mới đưa vào tính toán gần đây.
    Thứ 2: giá trị t-z sẽ reffer to giá trị UPC tính ở trên.
    Thứ 3: trong cpt, pcpt test, 3 giá trị quan tâm nhất là: a. Cone resistance, b. Pore pressure, c. Shaft resistance. Giá trị dùng trực tiếp để tính UPC là Cone resistance.
    hứ 1: tính ultimate pile capacity (UPC) sẽ dựa theo:a. kết quả thí nghiệm trong phòng ; b. Dựa theo kết quả thí nghiệm trong phòng + kết quả PCPT (Cho Sand). Kết quả UPC theo pp 1.b đáng tin cậy hơn vì correlative trực tiếp từ giá trị cone resistance trong pcpt test, nhưng cần phải có kinh nghiệm để tính toán vì đây là pp mới đưa vào tính toán gần đây.
    Thứ 2: giá trị t-z sẽ reffer to giá trị UPC tính ở trên.
    Thứ 3: trong cpt, pcpt test, 3 giá trị quan tâm nhất là: a. Cone resistance, b. Pore pressure, c. Shaft resistance. Giá trị dùng trực tiếp để tính UPC là Cone resistance..
    Dự án offshore O&G luôn luôn có 1 lỗ khoan làm cpt
     
    Chỉnh sửa cuối: 8/3/21
  2. hoangtu

    hoangtu Moderators Thành viên BQT

    Tham gia ngày:
    20/5/12
    Bài viết:
    670
    Đã được thích:
    46
    Điểm thành tích:
    28
    Ghi nhớ thêm một số thông tin:
    1/ CTPU là vị trí đó chỉ làm thí nghiệm CPT có đo áp suất lỗ rỗng. BH là khoan lấy mẫu nguyên dạng để đem thí nghiệm trong phòng lab, mục đích xác định tính chất cơ lý của đất. Nếu chỉ có BH, thì vẫn tính toán được sức chịu tải của cọc. Nếu có thêm CPTU, thì sẽ có thêm 1 lựa chọn khác là tính toán sức chịu tải cọc theo phương pháp CPT. Nếu địa tầng có lớp cát thì CPTU sẽ cho độ tin cậy về thông lớp Cát đó rất cao hơn BH. Nếu có cả BH và CPTU thì xác định địa tầng tại vị trí đó sẽ chính hơn nếu chỉ có BH
    2/ Nếu Dự án đã installed rồi, thì trong pile driving monitoring sẽ có comment về địa tầng tại vị trí đóng cọc có đồng nhất với địa tầng tại borehole dự án không, dựa vào comment này để thuyết phục thẩm tra
    3/ CPTU = Cone Penetration Test with pore water pressure measurement
    4/ BH = borehole, BH có 2 giai đoạn: lúc lấy mẫu nguyên dạng lên, sẽ làm 1 số thí nghiệm ở phòng lab hiện trường--->>submit soil field report. Sau đó mẫu nguyên dạng sẽ chuyển về phòng lab trên bờ để làm tất cả các test, Sau đó submit Soil final report
    5/ CPTU = Cone Penetration Test with pore water pressure measurement
    6/ Trong lớp sand, CPTU cho kết quả tin cậy hơn so với kết quả thí nghiệm trong phòng lab của BH
    PSI, những điều cần lưu ý
     

Chia sẻ trang này