Dàn khoan dầu ngoài khơi hoạt động như thế nào?

Thảo luận trong 'Tìm hiểu về Ngành' bắt đầu bởi SteelMan, 26/12/14.

  1. SteelMan

    SteelMan Moderator

    Tham gia ngày:
    9/8/12
    Bài viết:
    253
    Đã được thích:
    5
    Điểm thành tích:
    18
    Làm sao bạn có thể phát hiện ra những mỏ dầu vùi sâu dưới lớp đá dày hàng trăm mét? Làm sao bạn có thể khoan dầu ở giữa lòng đại dương sâu thẳm âm u? Làm cách nào mà bạn không làm ô nhiễm môi trường? Và bạn sẽ đối phó ra sao với những hiểm họa không-thể-lường-trước từ lòng biển sâu hung dữ?

    Nhiều người nói rằng, tiền làm thay đổi thế giới. Người khác lại cho rằng, chìa khóa ở đây là tình yêu, hay thậm chí là âm nhạc. Nhưng dù đó là gì đi chăng nữa, sự phụ thuộc của loài người vào dầu mỏ vẫn cho thấy sự thật hiển nhiên: Trái đất vẫn quay nhờ có sự “bôi trơn” của dầu.

    Nhu cầu sử dụng dầu của loài người vào khoảng 80 triệu thùng dầu mỗi ngày (theo số liệu của CIA), và những con số này vẫn không ngừng tăng lên theo từng ngày. Mỹ và châu Âu, 2 trung tâm kinh tế hàng đầu thế giới với mức tiêu thụ khoảng 19.5 triệu thùng dầu thô/ ngày, chiếm 1/2 mức tiêu thụ dầu của thế giới. Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới,cũng không hề tỏ ra kém cạnh với mức tiêu thụ khoảng 9 triệu thùng dầu thô/ ngày. Điều này là một phần nguyên nhân đẩy giá dầu lên ngưỡng “trên trời”: vào năm 2011, giá 1 thùng dầu luôn dao động quanh mức 100 USD/thùng, thậm chí có lúc đã lên đến mức kỷ lục 120 USD/thùng (theo số liệu của OPEC- tổ chức xuất khẩu dầu mỏ thế giới), và có vẻ như trong năm nay, giá dầu vẫn chưa hề có xu hướng hạ nhiệt. Để đáp ứng đủ cho sự “khát” dầu ghê gớm này, những tập đoàn, công ty chất đốt đã không ngừng xới tung quả đất lên để tìm ra những nguồn dự trữ dầu mới. Và mặt biển, với diện tích chiếm đến 3/4 quả đất, rõ ràng là một địa điểm không thể hợp lý hơn.

    Đi xuống đáy biển và khoan tung lòng đất lên, điều đó là cả một thử thách. Riêng việc khoan dầu đã đặt ra rất nhiều vấn đề. Làm sao bạn có thể phát hiện ra những mỏ dầu vùi sâu dưới lớp đá dày hàng trăm mét? Làm sao bạn có thể khoan dầu ở giữa lòng đại dương sâu thẳm âm u, và chuyển tất cả những thứ ở dạng khí, dạng lỏng và dạng rắn đó về mặt đất? Làm cách nào mà bạn có thể khai thác được dầu và không làm ô nhiễm môi trường? Và bạn sẽ đối phó ra sao với những hiểm họa không-thể-lường-trước từ lòng biển sâu hung dữ? Hãy cùng đi tìm câu trả lời ở bài viết dưới đây.

    Họ săn tìm nguồn dầu ra sao?

    Phần lớn nguồn dầu thô thường nằm ở độ sâu khoảng từ 200-7000 mét, bị chôn vùi dưới lớp đất đá dày. Những nhà địa chất học trước tiên sẽ nghiên cứu những chi tiết bề mặt và bản đồ địa chất, sau đó, họ sử dụng một thiết bị được gọi là trọng lực kế (gravity meter) để tìm ra những dao động trọng lực thoáng qua, từ đó tìm ra một dòng dầu chảy ngầm dưới đất.

    Những lớp trầm tích ở trên nguồn dầu thô sẽ làm thay đổi từ trường của Trái đất. Bằng cách sử dụng thiết bị nhận cảm từ trường (sensitive magnetic survey equipment), tàu thăm dò có thể đi qua vùng biển nào đó và định vị chính xác những vùng từ trường bất thường. Những số liệu này sẽ giúp họ tìm ra những dấu hiệu chỉ điểm cho nguồn dầu phía dưới.

    Không chỉ vậy, những nhà địa chất học còn có thể phát hiện ra những nguồn dầu mỏ thông qua việc sử dụng thiết bị khảo sát địa chấn, hay còn có tên gọi khác là phương pháp “bật lửa” (sparking). Những sóng siêu âm sẽ được được “bắn” xuyên lòng đại dương qua nhiều lớp đất đá khác nhau. Với mỗi loại đá, những sóng này sẽ di chuyển với những vận tốc khác nhau, và sự thay đổi vận tốc này sẽ trở thành tín hiệu gửi về bộ phận nhận cảm gắn bên cạnh thuyền do thám. Cùng với sự trợ giúp của các thiết bị máy móc, những nhà nghiên cứu địa chấn có thể phân tích thông tin để tìm ra những mỏ dầu tiềm năng.

    Nhưng trên hết, để phát hiện ra một mỏ dầu, bạn vẫn phải tiến hành những mũi khoan thăm dò, nếu như bạn muốn biết chắc rằng mỏ dầu này có thực sự đáng khai thác hay không. Để làm việc này, những công ty khai thác dầu sử dụng những dàn khoan di động. Có những dàn khoan được gắn trực tiếp vào thuyền, tuy nhiên phần lớn những dàn khoan này phải được vận chuyển đến từ những tàu chuyên chở khác.


    Dàn khoan di động này trước tiên sẽ khoan bốn lỗ thăm dò tại vị trí nghi ngờ, mỗi lỗ mất 2 đến 3 tháng để hoàn thành xong. Những nhà địa chất học sẽ sử dụng những mũi khoan này để lấy ra những mẫu thử. Nói cách khác, những mũi khoan này cũng giống như những mũi xi-lanh, nó giúp cho những nhà nghiên cứu hút ra những mẫu dầu, qua đó phân tích số lượng và chất lượng của mỏ dầu phía dưới và dựa những kết quả này để quyết định xem mỏ dầu này có đáng để tiếp tục khai thác hay không.

    Khai thác


    Khi những nhà địa chất học đã xác định rõ giá trị của một mỏ dầu, giờ đã đến lúc khoan những giếng dầu sản xuất và thu hoạch. Trung bình một giếng dầu sẽ có tuổi thọ trung bình từ 10 cho đến 20 năm, do đó dàn khoan luôn phải được xây dựng với một nền móng vững chắc. Những dàn khoan này sẽ được cố định trực tiếp vào đáy biển bằng cách sử dụng kim loại, nền bê tông và cả những sợi cáp cố định. Như bạn đọc có thể thấy, dàn khoan này sẽ phải đứng vững hàng chục năm trời, bất chấp mọi hiểm họa đến từ độ sâu hàng nghìn mét dưới mực nước biển. Một dàn khoan dầu có thể khoan được khoảng 80 giếng, tuy nhiên ít khi họ sử dụng hết những mũi khoan này. Một mũi khoan trực tiếp sẽ làm cho giếng dầu lún sâu vào lòng đất, từ đó dàn khoan có thể vươn tới những giếng dầu khác cách xa đó hàng dặm.

    Một giếng khoan dầu thường phải được đào sâu hàng dặm vào trong lòng đất, tuy nhiên mỗi một mũi khoan lại thường chỉ dài khoảng 9-10 mét, do đó, phải mất đến hàng tuần, thậm chí ròng rã cả tháng trời để khoan tới mỏ dầu. Và mỗi một mét khoan sâu xuống, nhiều vấn đề khác lại nảy sinh. Những mũi khoan càng ngày càng nóng lên, nước, bùn đất, rong rêu, mảnh khoan vụn…có thể là bít tắc lỗ khoan. Để giải quyết vấn đề này, những nhà thiết kế sử dụng một loại chất lỏng hỗn hợp có tên gọi là “drilling mud” -tạm dịch: bùn khoan. Chất lỏng này được bơm qua ống dẫn xuống bề mặt giếng dầu đang khoan, với tác dụng làm mát mũi khoan, tra dầu mỡ vào ống khoan, đồng thời dọn sạch bề mặt lỗ khoan và cản trở dòng chất lỏng từ ngoài xâm nhập vào.

    (copy từ Diễn đàn CN Dầu khí).
     
    Chỉnh sửa cuối: 26/9/15
  2. SteelMan

    SteelMan Moderator

    Tham gia ngày:
    9/8/12
    Bài viết:
    253
    Đã được thích:
    5
    Điểm thành tích:
    18
    Khai thác (tiếp theo)

    H
    ỗn hợp bùn dầu này có thể được coi như tuyến phòng ngự đầu tiên, bảo vệ giếng dầu khỏi áp suất khủng khiếp dưới đáy biển. Tuy nhiên, nguy cơ của việc dầu bị cuốn trôi khỏi giếng vẫn là rất cao. Để kiểm soát vấn đề này, những người khai thác dầu sử dụng hệ thống chống phun trào dầu (blowout prevention system — viết tắt: BOP). Nếu như sức ép của ga và dầu lên bề mặt giếng tăng đến một mức nào đó, hệ thống này sẽ khóa giếng dầu này lại bằng cách đóng những van và pit-tông sử dụng sức nước.

    Quá trình khoan thường diễn ra qua nhiều giai đoạn. Mũi khoan đầu tiên, với đường kính khoảng 50 cm, sẽ đi sâu xuống từ vài nghìn đến vài chục nghìn mét. Sau khi đã xuống đến một độ sâu nhất định, những kỹ sư sẽ tháo những mũi khoan này ra, và gửi xuống một đoạn ống kim loại rỗng với vai trò như một ống dẫn. Ống dẫn này sẽ cố định vào lỗ khoan, giúp ngăn chặn rò rỉ dầu ra biển và giúp cho giếng dầu không sụp xuống. Tiếp theo, những mũi khoan với đường kính khoảng 30 cm sẽ khoan sâu hơn xuống, và sau đó quy trình lại được lặp lại: các mũi khoan được tháo ra, và những ống dẫn được lắp vào. Cứ như vậy, những mũi khoan nhỏ hơn, khoan được sâu hơn sẽ tiếp tục thay thế và khoan sâu xuống, những đường ống bảo vệ liên tục được lắp ráp vào. Trong suốt quá trình này, 1 thiết bị được gọi là “packer” sẽ đi theo những mũi khoan xuống, để đảm bảo rằng mọi thứ đều được gia cố vững chắc.

    Khi những mũi khoan cuối cùng đã chạm xuống đến mỏ dầu, ống dẫn sản xuất sẽ được gắn vào đó. Hệ thống ống dẫn này sẽ được phân lập riêng ra trong một vỏ bọc rắn, từ đó cô lập giếng này với những giếng lân cận. Điều này có vẻ hơi bất thường, khi bạn khóa mỏ vàng lại vào lúc mà bạn vừa chạm vào nó, nhưng mục đích của việc này không chỉ là ngăn chặn dầu và ga trào ngược ra ngoài, mà còn là điều khiển dòng chảy của những sản phẩm này. Những kỹ sư sau đó sẽ đưa chất nổ xuống để đục thủng ống dẫn ở những độ sâu khác nhau, từ đó giúp cho dầu và ga thoát ra với áp suất nhẹ nhàng hơn rất nhiều.

    Tiếp đó, những kỹ sư sẽ cần phải thiết kế một lực đẩy giúp bơm dầu lên trên. Họ quyết định sử dụng nước hoặc ga, bơm chúng xuống giếng dầu, từ đó tăng áp lực trong mỏ dầu lên và dầu có thể được hút lên mặt nước. Trong một số trường hợp, khí nén hoặc hơi nước được bơm xuống để hâm nóng lượng dầu trong giếng, qua đó tăng cường áp suất giúp cho việc bơm dầu lên trở nên dễ dàng hơn.

    Những gì họ hút ra được từ các giếng dầu này không phải là sản phẩm tinh khiết. Chúng là một hỗn hợp bao gồm dầu thô, khí ga, hơi nước và các lớp cặn trầm tích. Thường thì việc lọc dầu được tiến hành trên đất liền, tuy nhiên, đôi khi những công ty khai thác dầu cải tiến những tàu chở dầu để xử lý và lưu trữ dầu ngay tại biển. Quá trình này giúp lọc bớt những chất cặn để sau đó việc lọc và tinh chế dầu được thuận tiện hơn.

    Cuối cùng thì, giếng dầu cũng sẽ có lúc phải cạn sạch. Khi đó, những kỹ sư sẽ tìm cách tháo bỏ dàn khoan, với thuốc nổ nếu như cần thiết, sau đó tìm đến những mỏ dầu khác, hoặc quay về đất liền để sửa chữa và nâng cấp. Những ống dẫn dầu sẽ được cắt bỏ và được đóng kín lại bằng bê tông. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, một phần của dàn khoan sẽ được để lại, và dần dần bị ăn mòn bởi nước biển.

    Cuộc sống trên biển


    [FONT=Arial][SIZE=2]Một dàn khoan dầu lớn, để vận hành đúng công suất, cần đến hàng trăm lao động, từ công nhân, kỹ sư, những nhà địa chất học, bác sỹ… Và những dàn khoan này đều nằm ở rất xa đất liền, do đó họ sẽ phải sống nhiều tháng trời trên mặt biển. Tất nhiên, cuộc sống xa khơi như vậy luôn có những ưu nhược điểm. Lương của nhân công thường rất cao, và kỳ nghỉ của họ sẽ dài hơn bình thường (từ vài tuần đến vài tháng). Đổi lại, khi làm việc, họ sẽ phải làm 12 tiếng một ngày, và KHÔNG CÓ NGÀY NGHỈ. Nhiều tuần lễ xa nhà sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của họ và gia đình, và trên thực tế phần lớn trong số họ đã tiêu tốn một nửa cuộc đời mình trên biển.[/SIZE][/FONT]

    [COLOR=#252324][FONT=Arial][FONT=Arial][SIZE=2]Để phần nào đối phó với những vấn đề trên, những công ty dầu mỏ đã cố gắng cung cấp đầy đủ mọi tiện nghi trên dàn khoan dầu — công trường và cũng là ngôi nhà thứ 2 của họ. Phòng riêng, truyền hình vệ tinh, và thậm chí là cả phòng tập thể hình, phòng tắm hơi và nhiều tiện nghi khác. Thức ăn luôn sẵn sàng 24/24, và chất lượng có thể nói là ngang với những khách sạn 5 sao. Họ làm việc luân phiên giữa ca ngày và ca đêm, công việc ở đây dường như diễn ra liên tục không ngừng nghỉ. Trực thăng và thuyền không ngừng cung cấp những gì cần thiết cho cuộc sống xa khơi trên dàn khoan dầu, dù thời tiết có tệ đến mức nào đi nữa.
    [/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [FONT=Arial][SIZE=2][LEFT][COLOR=#252324][FONT=Arial][FONT=Arial][SIZE=2]Nhưng dù thế nào đi nữa, những tiện nghi trên vẫn không thể nào bù lại những nguy hiểm thường trực mà những lao động trên dàn khoan phải đối phó. Từ thời tiết khắc nghiệt của biển cả, điều kiện làm việc với những máy móc nguy hiểm chết người, cho đến những hiểm họa của việc khoan sâu vào lòng đất và hút ra những chất lỏng ở nhiệt độ cao,với nguy cơ cháy nổ cực-kỳ-lớn, và đặc biệt , việc phân tách dầu và khí đốt sẽ khiến họ phải chịu một lượng độc chất rất nặng nề. Do đó, những công ty dầu khí sẽ phải tổ chức những lớp học an toàn lao động đặc biệt, giúp lao động của họ nắm vững kiến thức về cách tự bảo vệ mình, nhất là trong điều kiện lao động không ổn định trên mặt biển.[/SIZE][/FONT][/FONT][/COLOR]
    [/LEFT]
    [/SIZE][/FONT]


     
    Chỉnh sửa cuối: 26/9/15
  3. SteelMan

    SteelMan Moderator

    Tham gia ngày:
    9/8/12
    Bài viết:
    253
    Đã được thích:
    5
    Điểm thành tích:
    18
    [FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][B][FONT=Arial][SIZE=2]Thực trạng khai thác dầu khí ở Việt Nam

    [B][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2]Với đường bờ biển dài 3260 km, tổng diện tích các vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa khoảng 1 triệu km2, rõ ràng Việt Nam có lợi thế không phải bàn cãi trong việc khai thác dầu khí trên biển. Nhiều mỏ dầu tiềm năng nằm trên thềm lục địa như: Bạch Hổ, Phú Khánh, Nam Côn Sơn, Malay- Thổ Chu, Vùng Tư Chính- Vũng Mây…., với trữ lượng dự kiến vào khoảng trên 550 triệu tấn dầu và 610 tỷ mét khối khí.
    [/SIZE][/FONT]
    [FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2]Tuy nhiên, tất cả những mỏ dầu ở thềm lục địa được phát hiện cho đến nay đều nằm ở độ sâu 200m dưới mặt biển. Do đó, việc phát hiện và khai thác những mỏ dầu này cần đến trình độ chuyên môn cao trong việc thăm dò, thẩm định, đánh giá…Trên thực tế, những công ty dầu khí Việt Nam đã có đường lối phát triển khai thác rất tốt trong những năm vừa qua. Năm 1986, khi lần đầu tiên phát hiện ra mỏ dầu Bạch Hổ, tốc độ khai thác mới chỉ là 0,04 triệu tấn/ năm, đến năm 2009, con số này đã lên đến gần 25 triệu tấn/năm (theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường), tuy nhiên, trữ lượng vẫn được duy trì tăng cao hơn sản lượng khai thác, điều này cho thấy sự thành công trong việc thăm dò và phát hiện ra nhiều mỏ dầu tiềm năng khác. Cụ thể, trong năm 2009, trữ lượng ở các mỏ dầu mới được phát hiện đã chiếm tới 45% tổng trữ lượng được bổ sung.[/SIZE][/FONT]

    [FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2][FONT=Arial][SIZE=2]Đặc trưng của công tác thăm dò dầu khí trên biển là mức độ rủi ro rất cao, ngay cả với những mỏ dầu đã và đang được khai thác. Do đó, ngành công nghiệp này đòi hỏi một trình độ chuyên môn rất cao từ khâu thăm dò, thẩm định cho đến khai thác, phát triển các mỏ. Nhận thức được điều này, các công ty dầu khí Việt Nam đã không ngừng đầu tư vào những công nghệ khai thác, thăm dò mới, đặc biệt là những công nghệ thu nổ, xử lý, phân tích những thông tin dưới dạng hình ảnh 3D để làm rõ thông tin về cấu trúc, địa chất của vùng thăm dò… Đây chính là chìa khóa cho thành công của nghành thăm dò dầu khí trong việc không ngừng gia tăng trữ lượng và sản lượng dầu khí trong tương lai.
    (Copy từ DD CN Dầu khí)

    ------------------------------------------------------------------
    Năm 2014, PVN đã gia tăng trữ lượng dầu khí đạt 48,11 triệu tấn quy đổi. Tập đoàn đã ký 06 hợp đồng dầu khí mới, 4 thỏa thuận, có 9 phát hiện dầu khí mới và đưa 8 mỏ/công trình vào khai thác.

    Theo đó, tổng sản lượng khai thác quy dầu đạt 27,58 triệu tấn, trong đó: Sản lượng khai thác dầu đạt 17,37 triệu tấn, Sản lượng khai thác khí đạt 10,20 tỷ m3, bằng 107,4% kế hoạch năm.

    Các sản phẩm khác như đạm, xăng dầu …cũng đều vượt kế hoạch đề ra. Cụ thể, sản xuất và cung cấp cho lưới điện quốc gia đạt 16,48 tỷ kWh. Sản xuất đạm đạt 1,64 triệu tấn. Sản xuất xăng dầu các loại toàn Tập đoàn đạt 5,71 triệu tấn.

    Hoạt động dịch vụ dầu khí tiếp tục được duy trì phát triển, doanh thu dịch vụ dầu khí năm 2014 đạt 240,7 nghìn tỷ đồng.

    Với sản lượng như trên, tổng doanh thu toàn Tập đoàn đạt 745,5 nghìn tỷ đồng. [B]Tổng doanh thu hợp nhất Tập đoàn đạt 370,0 nghìn tỷ đồng. Tổng lợi nhuận sau thuế đạt 46 nghìn tỷ đồng (nếu tính cả phần lãi từ hoạt động của Vietsovpetro thì đạt 54,4 nghìn tỷ đồng)[/B][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT].

    [/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/B]
    [/SIZE][/FONT][/B][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT][/SIZE][/FONT]
     
    Chỉnh sửa cuối: 26/9/15
  4. SteelMan

    SteelMan Moderator

    Tham gia ngày:
    9/8/12
    Bài viết:
    253
    Đã được thích:
    5
    Điểm thành tích:
    18
    Vậy các bể trầm tích Việt Nam có triển vọng dầu khí như thế nào?

    Bể trầm tích dầu khí Cửu Long
    có diện tích khoảng 36.000 km[SUP]2[/SUP] với chiều dày trầm tích Đệ Tam đạt tới trên 8.000 m. Kết quả công tác tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí trong những năm qua đã chứng minh sự tồn tại ở đây một hệ thống dầu khí hoàn chỉnh. Tầng sinh chủ yếu là đá mẹ tuổi Oligocen, có nguồn gốc đầm hồ với tổng hàm lượng vật chất hữu cơ cao, Kerogen loại I và loại II. Dầu, khí bắt đầu sinh từ 27 triệu năm trước đây và di cư mạnh nhất từ 16-20 triệu năm trước đây. Dầu khí được phát hiện và đang đượckhai thác từ nhiều đối tượng chứa khác nhau như cát kết tuổi Miocen,Oligocen, đá móng granitoid nứt nẻ - hang hốc trước Đệ Tam có các đặc tính thấm chứa tốt. Bẫy dầu khí gồm cấu tạo, phi cấu tạo và hỗn hợp. Việc phát hiện dầu khí trong nhiếu cấu tạo và nhiều mỏ đã đưa vào khai thác nhiều mỏ như Bạch Hổ, Rồng, cụm mỏ Sư Tử… và các tiêu chí đánh giá rất thuận lợi nêu trênchứng tỏ bể trầm tích Cửu Long là bể có tiềm năng dầu lớn nhất trong các bể trầm tích của Việt Nam.

    Bể trầm tích dầu khí Nam Côn Sơn có diện tích khoảng 100.000 km[SUP]2 [/SUP]với chiều dày trầm tích Đệ Tam, nơi sâu nhất, lên tới 11.000m- 12.000m. Công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí ở bể trầm tích Nam Côn Sơn đã chứng minh sự tồn tại của hệ thống dầu khí như sự tồn tại các tập sét than, sét bột tuổi Oligocen thành tạo trong môi trường lục địa, Kerogen loại II/III có khả năng sinh khí và dầu, tập sét bột tuổi Miocen sớm thành tạo trong môi trường biển, Kerogen loại III có khả năng sinh khí. Đá chứa gồm granit, granodiorit tuổi Mesozoi, cát kết tuổi Oligocen, Miocen, Pliocen sớm và carbonat tuổi Miocen giữa, muộn. Các lớp chứa lục nguyên đa số mỏng (10 -20 mét), độ rỗng và độ thấm giảm nhanh theo chiều sâu. Tầng chắn địa phương là các tập trầm tích hạt mịn nằm xen kẽ trong các phức hệ trầm tích có tuổi khác nhau, tầng chắn khu vực có chất lượng tốt là các tập sét dày, trải rộng có tuổi Pliocen. Tuy nhiên việc các đứt gãy xuất hiện do chuyển động kiến tạo xẩy ra theo nhiều pha khác nhau, nhưng mạnh nhất vào cuối Oligocen và cuối Miocen giữa. Biên độ đứt gãy lên tới hàng ngàn mét và chiều dài lên đến hàng trăm kilomet là những yếu tố không thuận lợi cho việc tích tụ và bảo tồn các tích tụ dầu khí. Bẫy chứa rất đa dạng bao gồm các khối đứt gãy, nếp lồi hình hoa, dạng cấu tạo, thạch học, địa tầng, khối carbonat …có thời gian thành tạo khác nhau.Với các tiêu chí khá thuận lợi cho việc sing thành, bảo tồn các tiac1 tụ dầu khí nêu trên cùng với việc tiến hành khai thác công nghiệp các mỏ Đại Hùng, Lan Tây, Lan Đỏ, Mộc tinh, Hải Thạch… cho phép đánh giá bể Nam Côn Sơn có triển vọng và có tiềm năng dầu khí lớn đứng thứ 2 của Việt Nam sau bể Cửu Long và chứa khí nhiều hơn dầu.

    Bể trầm tích Sông Hồng
    có diện tích khoảng 110.000 km2, với chiều dày trầm tích Đệ Tam, chỗ sâu nhất, lên tới 12km. Công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí cho thấy có hai tầng sinh quan trọng là đá mẹ Oligocen và Miocen dưới. Trong đó đá mẹ Oligocen là tầng sinh chính, đã trải qua tất cả các pha tạo sản phẩm từ dầu đến khí ẩm, condensate và khí khô. Đá chứa gồm móng carbonat nứt nẻ hang hốc có tuổi Carbon – Pecmi và Devon giữa – muộn, cát kết Oligocen có độ rỗng nhỏ phân bố không ổn định, cát kết, bột kết Miocen có độ rỗng thay đổi từ 15 đến 25%, độ thấm tới 139mD. Đá chắn gồm các tập sét Oligocen đồng nhất, các tập sét kết, sét than trong Miocen phân bố rộng, khá ổn định với chiều dày từ 15 đến 25 mét có đặc tính chắn tốt. Việc các tập sét trong Oligocen và Miocen bị phá vở bởi hệ thống đứt gãy do hoạt động kiến tạo xẩy ra một số nơi làm chất lượng chắn của các tập sét giảm đi đáng kể. Bẩy chứa dầu khí rất đa dạng, đặc biệt là bẩy dạng phi cấu tạo khá phổ biến. Ngoài mỏ khí Tiền Hải C đang khai thác, đã phát hiện nhiều mỏ dầu khí khác như Hàm Rồng Nam, Thái Bình, Báo Vàng, Cá Voi Xanh… là các dấu hiệu trực tiếp cùng với các tiêu chí tương đối thuận lợi kể trên nói lên triển vọng dầu khí của bể. Tuy được xếp thứ 3 về triển vọng và tiềm năng chứa dầu của Việt Nam nhưng khả năng chắn và hàm lượng CO2 cao là yếu tố rủi ro cần quan tâm. Có thể dự báo bể Sông Hồng chứa các mỏ khí là chủ yếu.


    Bể trầm tích dầu khí Mã lai -Thổ Chu
    có diện tích khoảng 80.000 km[SUP]2 [/SUP]với chiều dày trầm tích Đệ Tam, chỗ lớn nhất, đạt đến 6000- 7000 m. Công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí đã chứng tỏ sự tồn tại các tập sét Oligocen và Miocen sớm giàu vật chất hữu cơ, trong đó tầng sinh Miocen sinh khí là chủ yếu trong lúc tầng sinh Oligocen có khả năng vừa sinh dầu vừa sinh khí. Đá chứa là các tập cát kết tuổi Oligocen, Miocen giữa, muộn, được hình thành trong môi trường châu thổ, diện phân bố hẹp, có chiều dày mỏng, độ rỗng trong khoảng 15 – 30%. Tầng chắn là các tập sét nằm xen kẽ các tầng chứa trong Oligocen, Miocen và Pliocen. Bẫy chứa bao gồm các dạng bẫy cấu tạo, phi cấu tạo, khối nhô của móng và kề áp đứt gãy. Việc phát hiện nhiều mỏ dầu khí, trong đó nhiều mỏ đã được đưa vào khai thác như Kim Long, Ác Quỷ, Sông Đốc- Năm Căn là biểu hiện trực tiếp cùng các tiêu chí kể trên chứng tỏ triển vọng dầu khí cao của bể. Có thể dự báo bể Malay – Thổ Chu chứa khí nhiều hơn dầu và xếp thứ 4 về triển vọng lẫn tiềm năng dầu khí của Việt Nam.

    Bể trầm tích Phú Khánh có diện tích khoảng 80.000 km[SUP]2[/SUP] với chiều dày trầm tích Đệ Tam trên 10 ngàn mét. Kết quả nghiên cứu cho phép dự báo tầng sinh là các tập sét đầm hồ và sét than trong Oligocen dưới và Miocen, có khả năng sinh cả dầu và khí.Tầng chứa dầu khí quan trọng là móng nứt nẻ trước Đệ Tam và basalt cận móng, cát kết trong Oligocen, Miocen, carbonat Miocen. Bẫy chứa dạng cấu tạo, vát nhọn địa tầng. Việc biểu hiện dầu khí trong một số giếng khoan tìm kiếm ở các cấu tạo Cá Heo, Cá Mập…cùng với sự tồn tại hệ thống dầu khí cho phép dự báo bể Phú Khánh có khả năng chứa khí nhiều hơn dầu.

    Bể trầm tích Tư Chính- Vũng Mây
    có diện tích khoảng 90.000 km[SUP]2[/SUP] với chiều dày trầm tích Đệ Tam phổ biến từ 3000m đến 5000m, nơi sâu nhất đạt đến trên 7000m. Công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí tuy đã được triển khai nhưng với khối lượng hạn chế nên việc đánh giá triển vọng dầu khí của bể gặp rất nhiều khó khăn, chủ yếu trên cơ sở suy đoán từ các bể trầm tích lân cận. Đá mẹ có thể là các tập sét tuổi Oligocen thành tạo trong môi trường đầm hồ và một phần trầm tích hạt mịn tuổi Miocen sớm thành tạo trong môi trường biển. Đá chứa gồm các tập cát kết xen kẽ tuổi Oligocen, Miocen và ám tiêu san hô. Đá chắn dự kiến là các tập sét xen kẽ tương ứng tuổi Oligocen, Miocen, ở một số trũng có thể tồn tại tầng sét tuổi Pliocen. Bẫy chứa chính là dạng vòm, bán vòm cát kết, khối xây ám tiêu san hô và có thể cả khối móng nứt nẻ. Rủi ro địa chất lớn nhất là tầng đá chắn, đặc biệt đối với khối xây ám tiêu san hô. Ngoài ra, một số nơi hoạt động núi lửa đã phá vỡ các cấu trúc ban đầu. Với những tiêu chí nêu trên, là bể trầm tích phân bố cận kề các bể trầm tích đang khai thác các mỏ dầu khínên bể Tư Chính – Vũng Mây được dự đoán là bể có triển vọng, có lẽ chứa khí nhiều hơn dầu.

    Bể trầm tích Trường Sa có diện tích khoảng 200.000 km[SUP]2 [/SUP]với với chiều dày trầm tích Đệ Tam phổ biến khoảng 2000- 3000 m, nơi sâu nhất đạt đến 5000 m.

    Còn bể trầm tích Hoàng Sa có diện tích khoảng trên 70.000 với chiều dày trầm tích đến 6-7 km. Công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí trong phạm vi hai bể trầm tích này được thực hiện với khối lượng nhỏ, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam cùng một số nhà thầu quốc tế đã thực hiện thu nổ địa chấn trên một số diện tích với mạng lưới tuyến thưa, mang tính khu vực, chưa có giếng khoan. Vì vậy việc đánh giá triển vọng dầu khí chưa thể thực hiện được. Nhiều số liệu về tiềm năng dầu khí của các bể này, được báo chí nước ngoài đăng tải, chỉ là dự đoán,đánh giá trên cơ sở so sánh với các bể trầm tích lân cận, còn theo cảm tính với các mục đích khác nhau và chưa có cơ sở.


    Cho đến nay ở Việt Nam đã phát hiện hơn 80 mỏ dầu, khí trong đó hơn 30 mỏ đã đưa vào khai thác. Các mỏ rất đa dạng là mỏ dầu, mỏ khí tự nhiên, condensate hay cả dầu và khí. Mỏ dầu gồm các mỏ Bạch Hổ, Rồng, Nam Rồng – Đồi Mồi, Thỏ trắng, Mèo Trắng, Sư Tử Đen, Sư Tử Đen Đông Bắc, Sư Tử Đen Tây Bắc,Sư Tử Vàng, Sư Tử Vàng Đông Bắc,Sư Tử Vàng Tây Nam, Sư Tử Nâu,Sư Tử Nâu Nam, Tê Giác Trắng, Cá Ngừ Vàng,Hải Sư Đen, Hải Sư Trắng, Rạng Đông, Phương Đông, Ruby, Topaz, Pearl, Diamond, Kình Ngư Trắng, Thăng Long, Đông Đô v.v thuộc bể Cửu Long và Đại Hùng thuộc bể Nam Côn Sơn, mỏ Cái Nước thuộc bể Malay – Thổ Chu. Mỏ dạng khí tự nhiên và condensate gồm các mỏ Lan Tây, Lan Đỏ, Hải Thạch, Mộc Tinh, Rồng Đôi, Chim Sáo thuộc bể Nam Côn Sơn; Sông Đốc, PM3 v.v thuộc bể Malay – Thổ Chu; mỏ Tiền Hải C thuộc bể Sông Hồng và Sư Tử Trắng thuộc bể Cửu Long. Ngoài các mỏ khí tự nhiên PVN còn tận dụng khai thác khí đồng hành của nhiều mỏ như Bạch Hổ, Rồng, Rạng Đông v.v. Như vậy, các mỏ dầu tập trung chủ yếu ở bể Cửu Long, còn mỏ khí, condensate tập trung ở bể Nam Côn Sơn, Sông Hồng và Malay – Thổ Chu.


    Dầu khí chứa trong các tầng chứa khác nhau như móng nứt nẻ trước Đệ Tam (mỏ Bạch Hổ, Rồng, Nam Rồng, Đồi Mồi, cụm mỏ Sư Tử, Cá Ngừ Vàng v.v); trong cát kết Oligocen và Miocen (mỏ Bạch Hổ, Rồng, Rạng Đông, Ruby, Đại Hùng v.v); trong đá vôi (mỏ Lan Tây, Lan Đỏ, Cá Voi Xanh, Đại Hùng, Báo Vàng v.v). Các thân dầu chứa trong móng nứt nẻ trước Đệ Tam là tầng chứa đặc biệt. Có thể nói rằng việc phát hiện ra thân dầu chứa trong đá móng granitoit nứt nẻ ở mỏ Bạch Hổ nói riêng và các mỏ dầu trong đá móng granitoittrước Đệ Tam ở bồn trũng Cửu Long nói chung đã làm thay đổi quan điểm tìm kiếm, thăm dò dầu khí ở Việt Nam. Việc đề xuất và áp dụng thành công các giải pháp KHCN khai thác loại thân dầu phi truyền thống này không những mang lại hiệu quả kinh tế cao mà còn có những đóng góp quan trọng cho khoa học dầu khí thế giới [3].

    Các mỏ dầu, khí của Việt Nam có cấu trúc địa chất phức tạp, bị chia cắt ra nhiều khối bởi đứt gãy kiến tạo, gồm nhiều dạng bẫy và trong mỗi mỏ có nhiều vỉa với chế độ động lực khác nhau. Nếu phân cấp các mỏ dầu khí theo trữ lượng có thể thu hồi của dầu và trữ lượng tại chỗ của khí (mỏ khổng lồ có trữ lượng trên 300 triệu tấn dầu và trên 500 tỷ m3 khí; mỏ rất lớn từ 100 triệu đến 300 triệu tấn dầu; mỏ lớn từ30 triệu đến 100 triệu tấn dầu; mỏ trung bình từ 3 triệu đến 30 triệu tấn dầu;mỏ nhỏ từ 1 triệu đến 3 triệu tấn dầu và mỏ rất nhỏ có trữ lượng nhỏ hơn 1 triệu tấn dầu hay nhỏ hơn 1 tỉ m[SUP]3 [/SUP]khí) thì các mỏ dầu, khí của Việt Nam chủ yếu thuộc loại mỏ trung bình (chiếm hơn 50% tổng số mỏ), nhỏ và rất nhỏ (chiếm khoảng 35% tổng số mỏ). Còn mỏ lớn và rất lớn không nhiều (chỉ chiếm khoảng 13% tổng số mỏ).
     
    Chỉnh sửa cuối: 26/9/15
  5. hhungog

    hhungog New Member

    Tham gia ngày:
    14/1/15
    Bài viết:
    51
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Nghề nghiệp:
    Assistant - MOFA
    Có anh nào có giáo trình hay cái gì đó minh họa dễ hiểu về giàn khoan ko ạ...........
     

Chia sẻ trang này