Việt Nam nhiều tiến sĩ nhất Asean, nhưng lại ít chất xám

Thảo luận trong 'Thông tin' bắt đầu bởi Fake_PhD, 25/10/12.

  1. Fake_PhD

    Fake_PhD New Member

    Tham gia ngày:
    19/7/12
    Bài viết:
    46
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Trước hết xin chú thích là bài này được trích từ báo SGTT để cung cấp thông tin cho diễn đàn và không hề có ý gì khác với anh em trong diễn đàn, càng không có hàm ý cạnh khóe anh em nào trong diễn đàn có bằng TS.

    (SGTT) - Thiếu một quy chế dân chủ, đó là lý do chúng ta thiếu sự sáng tạo trong khoa học. Chúng ta luôn nói khoa học công nghệ (KHCN) là quốc sách nhưng dường như không bao giờ quan tâm đến quốc sách!


    Những con số thống kê đáng xấu hổ






    [​IMG]
    Việt Nam sẽ đào tạo bổ sung ít nhất 20.000 tiến sĩ từ nay đến năm 2010. Tổng kinh phí thực hiện đề án dự kiến là 14.000 tỷ đồng.
    “Tình hình khoa học, giáo dục nước nhà rất cấp bách”, đó là chia sẻ của phó tổng thư ký liên hiệp Các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) Phạm Bích San tại buổi đóng góp ý kiến cho luật KHCN sửa đổi ngày 18.10 tại Hà Nội. Đã không có một trường đại học Việt Nam nào được đứng trong bảng xếp hạng 500 trường đại học đứng đầu thế giới. Số lượng các bài báo công bố quốc tế của cả nước 90 triệu dân trong một năm chỉ bằng khoảng số lượng của một đại học Thái Lan. Vậy mà số giáo sư, tiến sĩ chúng ta nhiều nhất Đông Nam Á. “Chúng ta gần như không có ai có nghiệp khoa học, tức là những người lao động quên mình trong khoa học và được ghi nhận bằng các giải thưởng khoa học quốc tế tầm cỡ”, TS San nhấn mạnh.


    Đồng quan điểm này, PGS.TS Hồ Uy Liêm (nguyên phó chủ tịch VUSTA) cho hay ngay các công trình chuẩn khoa học của nước nhà cũng rất ít. Chúng ta chỉ ngồi nhà khen nhau, bệnh thành tích lan tràn. Trong khi bắt tay vào làm thì lại có nhiều lý do để “sợ” đủ thứ. Đại diện VUSTA khẳng định, Việt Nam chưa bao giờ thống kê được có bao nhiêu đề tài khoa học được nghiên cứu, bao nhiêu phần trăm đề tài đó được ứng dụng trong cuộc sống. Người làm đề tài ít để ý cái mình làm có bị trùng hay không. Thậm chí, người đi sau làm trùng đề tài lại được đánh giá tốt hơn…


    Đem tới buổi thảo luận câu chuyện về thực trạng tổ chức KHCN trong lĩnh vực nông nghiệp, GS.VS Trần Đình Long (chủ tịch hội Giống cây trồng Việt Nam) cho biết, tính riêng khối nông nghiệp thì viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam có tới 18 viện trực thuộc. Ở khối thuỷ lợi, có tám viện, 38 trường, 18 hiệp hội và 19 hội chuyên ngành. Vì các tổ chức cồng kềnh, chồng chéo và nhiều tổ chức trung gian; các bên không kết hợp được nghiên cứu với đào tạo và chuyển giao công nghệ, cơ chế tự chủ bị phớt lờ, không tạo được sản phẩm quốc gia.


    Trả lại cho thị trường


    TS San đề xuất: khoán gọn và trả tiền theo kết quả được đánh giá bởi các nghiệm thu nghiêm túc. Hiệu quả công việc phải đo bằng kết quả. Còn đánh giá công nghệ thì phải để cho đăng ký bằng phát minh và thị trường làm việc. Công nghệ mà không bán được thì công nghệ đó có để làm gì? Chẳng lẽ cứ để cho những người nông dân trình độ sơ khai cứ phải phát minh mãi?


    Phải đưa các viện nghiên cứu cơ bản về lại các trường đại học, các phòng thí nghiệm hay viện công nghệ về doanh nghiệp hoặc thành lập các doanh nghiệp khoa học vận hành theo cơ chế thị trường. Việc tách rời nghiên cứu và đào tạo như hiện nay sẽ khiến các viện thiếu sự tiếp xúc với sinh viên, nguồn cảm hứng và nguồn nhân lực có chất lượng cho nghiên cứu tương lai.


    Đồng quan điểm này, TS Đào Trọng Hưng (chuyên viên cao cấp viện KHCN Việt Nam) cho rằng, khi có sự can thiệp của yếu tố thị trường sẽ hạn chế chuyện “xin – cho”, Nhà nước – doanh nghiệp – cá nhân khi đó đều phải “đặt hàng” nếu muốn có các nghiên cứu khoa học. Khi đó nguồn “nuôi” khoa học sẽ không hoàn toàn lấy từ ngân sách mà sẽ được thu hút từ bên ngoài như các doanh nghiệp, các tổ chức và nguồn vốn nước ngoài.






    Thanh Tuyền
     
    Last edited by a moderator: 17/11/15
  2. NoName

    NoName Member

    Tham gia ngày:
    20/7/12
    Bài viết:
    637
    Đã được thích:
    19
    Điểm thành tích:
    18
    Bốn “trọng bệnh” của nền giáo dục Việt Nam

    [​IMG]

    LD - Hội nghị BCH Trung ương lần thứ sáu đã xem xét, thảo luận về đề án đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT và đề án phát triển KH&CN. Báo Lao Động có cuộc trao đổi với GS-TSKH Trần Ngọc Thêm - Chủ tịch Hội đồng KH – ĐT Đại học Quốc gia TPHCM, Uỷ viên Hội đồng Lý luận T.Ư - về hai nội dung trên.

    GS vào thẳng vấn đề:

    - Trước hết, về thực trạng giáo dục, tôi xin được nói thẳng thắn là hỏng ở các cấp học, trên khắp các bình diện, hỏng một cách căn bản và toàn diện. Chính vì thế nên Đảng, Nhà nước và tất cả người dân đều dễ dàng thống nhất với nhau về việc đổi mới giáo dục và đào tạo một cách căn bản và toàn diện như một nhu cầu cấp bách. Giáo dục VN theo tôi đang mắc 4 trọng bệnh: Bệnh thành tích, bệnh cào bằng, bệnh suy dinh dưỡng và bệnh gian dối.

    Bệnh thành tích
    rất nặng ở khối phổ thông, giáo viên muốn lớp mình giỏi nên cho toàn điểm 9 - 10. Trường muốn thành tích cao, ngành cũng vậy. Cả nước chạy theo thành tích, lúc nào cũng muốn có nhiều trường đại học, có nhiều người tốt nghiệp. Điều này cho thấy người VN hiếu danh hơn hiếu học, tình trạng học giả, dạy giả, bằng thật rất nhiều, còn học thật mà không nhất thiết cần bằng thì rất ít.

    Bệnh cào bằng dẫn đến tình trạng mở trường theo phong trào, tỉnh nào cũng có trường ĐH nhưng không có đủ giảng viên. Hiện đại hóa theo phong trào, trường nào cũng chuyển sang học chế tín chỉ, trong khi rất ít trường đáp ứng được những điều kiện tối thiểu để làm tín chỉ. Cào bằng đánh giá chất lượng, cái gì cũng làm nhưng không phân hóa rõ ràng chất lượng, kết quả. Quản lý khung học phí cũng cào bằng, dẫn đến tình trạng tất cả các cơ sở đào tạo đều thiếu kinh phí.

    Bệnh suy dinh dưỡng
    chính là cái gốc của vấn đề giáo dục. Cơ sở vật chất của các trường thiếu và lạc hậu. Lương giáo chức quá thấp, không đủ sống nên quá nửa số giáo viên không an tâm với nghề. Nhà nước đầu tư 20% tổng ngân sách cho giáo dục, nhưng số tiền này đi vào cơ sở hạ tầng gần hết, thành ra vẫn như muối bỏ biển.

    Bệnh gian dối là hệ quả của tất cả ba bệnh trên. Bệnh thành tích là nguồn gốc đầu tiên dẫn đến gian dối. Các con số tốt nghiệp cao hằng năm là gian dối. Bệnh cào bằng dẫn đến gian dối. Có phong trào nhưng hữu danh vô thực, cái gì cũng có nhưng không có gì chất lượng cao. Bệnh suy dinh dưỡng càng sinh ra gian dối. Trường nào cũng tìm đủ mọi lý do cao cả để tăng các hệ đào tạo, tăng số lượng SV; báo cáo tỉ lệ số SV trên một giảng viên gian dối – tất cả thực chất cốt để thu học phí lấy tiền nuôi cán bộ, nuôi trường.

    Từ 4 bệnh này sinh ra đủ mọi hậu quả tệ hại: Chất lượng giáo dục xuống cấp, đạo đức học đường xuống cấp, nguồn nhân lực do hệ thống giáo dục cung cấp cho xã hội thiếu tính sáng tạo, khả năng nghiên cứu hạn chế nên KHCN trì trệ; năng lực thực hành thấp.

    Đã có nhiều chuyên gia chỉ ra bệnh của giáo dục VN. Đối với 4 trọng bệnh mà Giáo sư vừa chẩn, xin hỏi có cứu chữa được không, nếu có thì cần bốc thuốc thế nào?

    - Trước hết là cần xác định lại mục tiêu, phải căn cứ vào hệ giá trị định hướng của con người VN trong giai đoạn toàn cầu hóa, công nghiệp hóa mà xác định mục tiêu. Để tránh bệnh thành tích thì mục tiêu trước hết của giáo dục chưa phải là số lượng, mà phải là chất lượng. Sản phẩm hàng hóa kém chất lượng còn dùng tạm được, chứ sản phẩm giáo dục mà kém chất lượng thì thà đóng cửa trường còn hơn, vì càng cho ra nhiều bao nhiêu thì càng gây nguy hại cho xã hội bấy nhiêu.

    Liều thuốc giải pháp phải vừa đủ bao quát để không sa đà vào những chuyện vụn vặt, đồng thời phải vừa đủ cụ thể để đảm bảo triển khai đúng hướng. Theo tôi, nên tập trung vào 5 nhóm giải pháp, gồm: Tổ chức hệ thống giáo dục; xây dựng nhân lực làm giáo dục; tăng cường vật lực cho giáo dục; thay đổi cơ chế giáo dục và đảm bảo chất lượng của hoạt động giáo dục.

    Để tránh cào bằng, tổ chức hệ thống giáo dục cần chú trọng không chỉ phân hệ, phân cấp mà còn phải phân tầng giáo dục, mỗi tầng mỗi hệ có mục tiêu khác nhau và do vậy, cách quản lý, cách đầu tư, mức độ tự chủ cho phép phải rất khác nhau. Chẳng hạn, việc học trước hết phải có mục tiêu, học làm người rồi sau mới là học tri thức và học phương pháp làm việc. Cho nên, các cấp học đầu tiên phải thật coi trọng việc dạy làm người. Thầy cô mà chạy theo thành tích thì học trò sẽ chỉ học được cách gian dối, đối phó; thầy cô mà chỉ đòi hỏi học thuộc lòng, bắt học trò viết văn theo đúng mẫu cho sẵn thì sẽ triệt tiêu luôn tính sáng tạo.

    Từ mẫu giáo, tiểu học lên THCS, THPT, vai trò của chức năng học làm người sẽ giảm dần, vai trò của học tri thức phải tăng dần. Nhưng từ THPT lên ĐH, sau ĐH, vai trò học tri thức nên giảm dần, mà vai trò học phương pháp phải tăng dần. Và bao trùm lên, tuy mục tiêu của mỗi giai đoạn mỗi khác nhau, nhưng những yêu cầu về hệ thống giá trị thì phải xuyên suốt. Tiểu học cũng phải chú trọng dạy tư duy sáng tạo, và ĐH cũng không được quên dạy làm người.

    Về nhân lực giáo dục, có thể nói toàn bộ sự xuống cấp trầm trọng của giáo dục hiện nay trước hết có nguyên nhân từ giáo dục phổ thông quá kém. Trình độ, năng lực, bản lĩnh các thầy cô dạy phổ thông hạn chế là do chất lượng đầu ra của ngành sư phạm kém. Đầu ra kém là vì số lượng và chất lượng đầu vào ngành sư phạm ngày càng ít và thấp. SV không chọn ngành sư phạm là do cơ hội kiếm việc làm thấp, thu nhập thấp, địa vị nhà giáo không được tôn trọng. Không chỉ ngành sư phạm mà chất lượng SV tốt nghiệp tất cả các ngành ĐH đều ngày càng kém đi. Lý do rất đơn giản: Nhìn tấm gương các thầy, các giáo sư được đối xử như thế, SV giỏi không mấy ai chịu ở lại trường. Cái gốc của nhân lực giáo dục nằm ở chất lượng giáo viên ĐH. Cho nên giải pháp chính là, muốn có thầy cô phổ thông giỏi phải có thầy cô ĐH chất lượng, muốn có thầy cô cả phổ thông lẫn ĐH chất lượng thì giáo viên phải có thu nhập đủ sống mà không cần phải dạy thêm, đồng thời phải quản lý tốt để đảm bảo lao động cả về số lượng lẫn chất lượng.

    Đến đây ta đã đụng chạm đến vấn đề mấu chốt của mấu chốt là vật lực giáo dục. Không có quốc gia nào mà nhà nước bao cấp được toàn bộ nền giáo dục. Việc xã hội hóa giáo dục nhằm đến nhiều mục tiêu, nhưng trong đó có mục tiêu huy động nguồn lực tài chính, đến lượt mình, việc đó liên quan đến chuyện kinh tế thị trường. Đừng né tránh mà nên công khai thừa nhận sự tồn tại của nhiều loại hình nhà trường, trong đó có loại trường hoạt động vì lợi nhuận. Chỉ có điều khác là thị trường kinh tế thì điều tiết bằng giá cả, còn thị trường giáo dục phải điều tiết bằng chất lượng. Bên cạnh đó, cần sử dụng thêm nhiều giải pháp khác để thu hẹp phạm vi bao cấp của ngân sách để nâng chất lượng đầu tư, ví dụ: Cổ phần hóa, phân tầng và cho mở trần học phí đối với một số loại trường (theo kiểu trường đại học quốc tế).

    Về cơ chế giáo dục, tăng cường hơn nữa việc tự chủ là một giải pháp sẽ giúp giải quyết cả chất lượng lẫn tài chính. Nếu cứ cho ''bú mớm'' mãi mà không tăng cường tự chủ, phân cấp quản lý, cởi trói cho giáo dục thì giáo dục sẽ không thể cất cánh được. Tuy nhiên, nếu tự chủ tràn lan, cào bằng thì cũng rất nguy hiểm. Các trường ĐH chưa đủ tầm thì không nên cho tự chủ đại trà, nhưng trường lớn thì không thể trói buộc bởi nhiều cơ chế. Tăng cường dân chủ trong giáo dục cũng là một giải pháp khác về cơ chế. Cuối cùng, hoạt động giáo dục phải đảm bảo chất lượng. Tư tưởng của nhiều thầy cô rằng điểm chẳng là gì cả, nên cấp phổ thông thì cho rộng tay để có thành tích, cấp ĐH và sau ĐH cho rộng tay để thu hút SV là nguy hại vô cùng cho tương lai của giáo dục nước nhà.

    Tại một cuộc họp của Uỷ ban Thường vụ QH gần đây có nêu ra vấn đề là chúng ta có hàng chục ngàn tiến sĩ, 9.000 giáo sư nhưng ít có phát minh, sáng chế, trong lúc nông dân lại làm được điều đó, Giáo sư có nhận định gì về thực tế này?

    - Xin được nói ngay, nghiên cứu khoa học có hai loại: Nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu cơ bản có thể đi trước thời đại rất nhiều, nhưng nghiên cứu ứng dụng thì ngược lại, phải gắn với nhu cầu xã hội. Hiện nay, nhiều nghiên cứu khoa học và chương trình đào tạo chưa sát thực tế, chưa nắm bắt nhu cầu từ sản xuất, đời sống. Tôi xin mở rộng thêm, xuất phát từ quan sát bề ngoài, lâu nay nhiều người cho rằng người Nam Bộ không chịu học cao, nhưng không thấy nguyên nhân là vì người Nam Bộ vốn thiết thực, nên họ sẵn sàng tự học để có những kiến thức họ cần chứ không chịu mất thời gian ngồi học những thứ viển vông.

    Chúng ta từng chứng kiến các kỹ sư ''hai lúa'' Nam Bộ như Trần Văn Dũng ở Trà Vinh chế tạo máy hút bùn bán khắp cả nước; Năm Hiếu ở Cần Thơ chăm sóc mai tết không rụng, mỗi mùa thu mấy tỉ đồng; “thần đèn” Nguyễn Cẩm Lũy- Tư Lũy gây kinh ngạc cho giới kỹ sư chuyên nghiệp.

    Vậy thì làm cách nào để các nhà khoa học làm ra được những sản phẩm công nghệ áp dụng được vào thực tiễn đời sống, thưa Giáo sư?

    - Kinh nghiệm của thế giới là phải kết hợp 3 chức năng: Nghiên cứu khoa học – đào tạo – gắn kết với sản xuất trong một loại trường gọi là đại học nghiên cứu (Research University). Trong khi ở tất cả các trường ĐH của ta, kể cả hai ĐH quốc gia, vì lý do kinh tế nên đều coi nhiệm vụ đào tạo là chính, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học là phụ. Lãnh đạo các trường chỉ thích giữ biên chế giảng dạy, bởi vậy mà nghiên cứu viên rất ít hoặc không có. ĐH nghiên cứu là loại trường có hai lực lượng cán bộ với tỉ lệ trách nhiệm khác hẳn nhau: Cán bộ giảng dạy dành khoảng 70% thời gian cho giảng dạy + 30% cho nghiên cứu; và cán bộ nghiên cứu dành khoảng 70% thời gian cho nghiên cứu + 30% cho giảng dạy. Đây là loại trường đào tạo đội ngũ lãnh đạo cho quốc gia và nguồn nhân lực tinh hoa cho đất nước. ĐH nghiên cứu là chìa khóa cho việc xây dựng nền kinh tế tri thức, đưa đất nước vượt qua bẫy thu nhập trung bình.

    Đức là nước đề xuất ra mô hình ĐH nghiên cứu từ thế kỷ 19, nhờ các trường này mà Đức vượt lên trở thành quốc gia mạnh hàng đầu Châu Âu vào đầu thế kỷ 20. Chính các ĐH nghiên cứu đã giúp Mỹ giữ vững vị trí đứng đầu thế giới. Trung Quốc thực hiện quyết liệt việc xây dựng ĐH nghiên cứu từ năm 1995; Nga đưa ĐH nghiên cứu vào Luật Giáo dục từ năm 1996, thực hiện quyết liệt từ năm 2009. Thái Lan cũng làm từ năm 2009. VN không thể không xây dựng ĐH nghiên cứu, do vậy làm sớm chừng nào tốt chừng ấy.

    - Xin cảm ơn Giáo sư.
     
    Chỉnh sửa cuối: 25/10/12
  3. SteelMan

    SteelMan Moderator

    Tham gia ngày:
    9/8/12
    Bài viết:
    253
    Đã được thích:
    5
    Điểm thành tích:
    18
    Đầu tư cho khoa học cơ bản: Có cũng như không

    Kỳ 1: Lãng phí


    Thiếu kinh phí là lý do người ta thường đưa ra để giải thích vì sao Việt Nam đã có không ít tên tuổi được biết đến trong môi trường khoa học đỉnh cao của thế giới, nhưng mặt bằng khoa học cơ bản thì vẫn còn quá thấp so với khu vực. Có đúng như vậy không? TS Trần Nam Dũng, giảng viên khoa toán – tin, đại học Khoa học tự nhiên TP.HCM, với tư cách là người trong cuộc sẽ trả lời phần nào câu hỏi này.

    Việt Nam còn quá nhiều vấn đề quốc sách cần quan tâm giải quyết, khó có thể trông chờ đến một nguồn kinh phí lớn để đầu tư cho khoa học cơ bản. Tuy nhiên, điều đáng nói là hiện nay chúng ta đang sử dụng một cách lãng phí và không hiệu quả những nguồn lực hiện có. Tức là vấn đề đang nằm ở chỗ cơ chế và cách thức sử dụng nguồn kinh phí, chứ không ở bản thân nguồn kinh phí.

    Đầu tư không ai được lợi


    Từ vài năm nay, chúng ta đã có những chương trình rầm rộ để đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ, nổi bật nhất là chương trình 322 đào tạo 20.000 tiến sĩ. Tuy nhiên, dường như những người thiết kế chương trình chỉ mới nghĩ đến việc đào tạo mà chưa nghĩ đến việc sử dụng nhân tài. Chúng ta vẫn quen với lối tư duy quan liêu bao cấp: tôi bỏ tiền ra đào tạo anh thì anh phải quay về phục vụ tôi. Nhưng khi người được đào tạo trở về, họ lại được đặt vào môi trường làm việc y như cũ, các đãi ngộ gần như không khác gì, nhiều người còn mất quyền lợi vì “ghế” cũ đã có người ngồi. Và một nghịch lý xảy ra là trong cú đầu tư này không có ai được lợi: Nhà nước tốn tiền đầu tư, cá nhân cũng chẳng được hưởng lợi (trừ vài năm được sống bao cấp), cơ quan chủ quản cũng không khai thác được hoặc không muốn khai thác lợi ích từ người mới về (do yếu kém hoặc do những lợi ích cá nhân). Kết cục thường là người về lại tìm cách ra đi sau khi đã hoàn thành “nghĩa vụ”. Đào tạo nhưng không chuẩn bị môi trường để sử dụng nguồn lực một cách xứng đáng, vô hình trung chúng ta đã lãng phí một nguồn kinh phí rất lớn.

    Nghiên cứu khoa học bị giết chết như thế nào?


    Thập niên 90 thế kỷ trước, rất nhiều tiến sĩ được đào tạo bài bản ở Liên Xô và các nước Đông Âu trở về nhưng rất trầy trật trong việc tìm kiếm một việc làm phù hợp với chuyên môn. Đơn cử trong ngành toán, năm 1990, hai tiến sĩ trẻ là Lê Bá Khánh Trình và Bùi Tá Long về xin việc tại trường ĐH Tổng hợp TP.HCM, nhưng chỉ Lê Bá Khánh Trình được nhận, còn Bùi Tá Long phải đi tìm việc khác vì… thiếu biên chế. Thật may là anh tìm được việc ở viện Cơ học ứng dụng và sau đó tự khẳng định mình ở đó. Đến cuối những năm 90, hai tiến sĩ toán là Nguyễn Văn Lượng (ĐH Tổng hợp Moskva) và Hoàng Ngọc Chiến (ĐH Tổng hợp Leningrad) về nước cũng chẳng ai quan tâm. Hoàng Ngọc Chiến từng nộp đơn vào khoa toán ĐH Khoa học tự nhiên – ĐH Quốc gia TP.HCM nhưng do thủ tục nhiêu khê và đặc biệt là cách tiếp đón không mấy thân thiện nên không tiếp tục theo đuổi ý định. Ngày nay các anh đã thành công trong lĩnh vực kinh doanh nhưng vẫn tiếc vì không được sử dụng những điều đã học.

    Đối với những người được hệ thống chấp nhận và tuyển dụng, sự lãng phí tiếp tục được thể hiện trong chế độ đãi ngộ. Quy đổi theo thời giá thì lương một tiến sĩ mới ra nghề chỉ khoảng... 2 triệu đồng. Thù lao một tiết dạy là khoảng 50.000 đồng ở bậc đại học và 80.000 đồng ở bậc cao học. Hướng dẫn một luận văn cao học/tiến sĩ được khoảng 1 – 1,5 triệu/năm. Với thu nhập như thế, hiển nhiên các cá nhân phải tự xoay xở. Người thì viết báo như TS Nguyễn Quốc Lân (ĐH Bách khoa TP.HCM), người làm thêm cho các công ty bên ngoài (TS Nguyễn Thanh Vũ, TS Nguyễn Văn Minh Mẫn, ĐH Bách khoa TP.HCM), người thì tham gia vào ngành công nghiệp “luyện thi đại học”: TS Lê Bá Khánh Trình, TS Nguyễn Viết Đông (ĐH Khoa học tự nhiên TP.HCM), TS Lê Anh Vũ (ĐH Sư phạm TP.HCM)... Và hệ quả là thời gian dành cho nhiệm vụ chính không còn. TS Lê Anh Vũ từng nói: “Tham gia luyện thi đại học là cách tốt nhất để giết chết nghiên cứu khoa học”. Từ vài năm nay, anh đã từ giã “cuộc chơi” này để tập trung nghiên cứu khoa học và kết quả là đã có hàng loạt bài báo khoa học được đăng trong các tạp chí trong nước và quốc tế.

    Những người “tử vì đạo”


    TS Nguyễn Quốc Lân khi được hỏi về môi trường nghiên cứu khoa học ở Việt Nam, ngậm ngùi: “Phải nói thật, ở Việt Nam loay hoay kiếm tiền thì không khó, nhưng nghiên cứu khoa học thì rất khó, phải hoặc là người tử vì đạo, hoặc rất thoải mái về kinh tế mới làm được. Mà thực ra môi trường xung quanh cũng không cho phép”.
    Hiện nay, đi dự hội nghị khoa học trong nước được hỗ trợ tiền tàu xe, tiền phòng 150.000 đồng/ngày và công tác phí 50.000 đồng/ngày. Đi dự hội nghị khoa học nước ngoài được hỗ trợ đồng mức 200 USD/người. Tổ chức seminar khoa học không được hỗ trợ kinh phí, tổ chức hội nghị khoa học xin được 20 triệu đã trầy trật. Mời giáo sư nước ngoài về được hỗ trợ tối đa là 500 USD (đây là quy chế mới, tiến bộ nhất hiện nay!). Nói chung, có rất ít lý do để hỗ trợ cho nhiệt huyết nghiên cứu khoa học.

    Hiện vẫn còn những người dành tâm huyết cho nghiên cứu khoa học, cho đào tạo thế hệ trẻ như TS Lê Anh Vũ, TS Huỳnh Quang Vũ (ĐH Khoa học tự nhiên TP.HCM), TS Nguyễn Văn Minh Mẫn… nhưng không biết họ còn trụ vững bao lâu, bởi như lời TS Nguyễn Văn Minh Mẫn: “Năm 2009, tôi từ chối vị trí tư vấn thống kê cho một công ty đa quốc gia ở TP.HCM để ở lại trường đại học, nhưng chưa rõ có thể tồn tại lâu dài hay không cho nghề khoa học của mình!”

    ---------- Post added at 09:21 AM ---------- Previous post was at 09:15 AM ----------

    Kỳ 2: Không hiệu quả

    Không rõ kết quả đầu tư ở các ngành khác thì thế nào, nhưng ở ngành toán có thể nói thẳng là rất kém hiệu quả!

    Kết quả cao nhất của một đề tài khoa học ngành toán có thể là một cuốn sách tham khảo, sách giáo khoa, một bài báo khoa học đăng trên tạp chí ngoài nước hoặc trong nước. Nhưng những kết quả như thế rất hiếm, phần lớn kết quả là một bài báo cáo nghiệm thu đề tài với một số điều đã làm được, những đề xuất định hướng tiếp theo và chữ ký nghiệm thu của các thành viên hội đồng. Sau đó đề tài sẽ được đóng theo đúng nghĩa của nó, gần như không ai biết đến và hơn nữa là dùng đến.

    Tại sao như vậy? Có phải vì trình độ nhà nghiên cứu của chúng ta kém? Có phải vì họ chưa thật tận tâm? Có phần đúng, nhưng chưa hẳn đã là nguyên nhân cốt lõi.

    Giải đúng bài toán... sai

    Để có một công trình khoa học tốt, cần có ba yếu tố:
    1) có bài toán hay đề tài tốt, phù hợp khả năng và kinh phí thực hiện;
    2) người thực hiện có đủ khả năng, tâm huyết và được hỗ trợ đầy đủ về kinh phí và môi trường thực hiện;
    3) khâu nghiệm thu được tiến hành nghiêm túc, khoa học.
    Ở chúng ta, có lẽ cả ba khâu đều yếu. Và sự yếu kém này có mối liên hệ mật thiết với nhau.

    Bắt đầu từ khâu đề tài. Do không có một định hướng chung nên ở đây ta có thể thấy sự trăm hoa đua nở. Đề tài được lựa chọn hoàn toàn chủ quan theo định hướng và sở trường của chủ nhiệm đề tài. Khi thẩm định, vì không có chuyên gia nên việc này được làm một cách qua loa. Kết quả là chất lượng đề tài được phó mặc cho… may rủi. Nhưng, cũng như tầm quan trọng của khai cuộc trong cờ vua, việc chọn đề tài đúng đóng vai trò quan trọng và là mấu chốt cho thành công của một nghiên cứu. Điều này quan trọng đến nỗi một nhà toán học đã đúc kết: “Thà giải sai một bài toán đúng còn hơn giải đúng một bài toán sai”. Vấn đề đặt ra đã sai, thì mọi cố gắng phần sau chỉ là vô ích.

    Đối phó là chính

    Nhưng làm sao có thể được đề tài tốt, đi đúng hướng của khoa học, của công nghệ, của ngành công nghiệp nếu sự giao lưu, cọ xát của chúng ta với khoa học thế giới quá khiêm tốn, nếu sự liên kết liên ngành hầu như không có, nếu ngành công nghiệp Việt Nam không tự tin đặt ra những bài toán cho giới khoa học, giới toán học Việt Nam, thay vào đó là sử dụng các công nghệ nước ngoài?

    Giả sử may mắn có được một đề tài tốt (nhờ vào những cố gắng cá nhân không mang tính hệ thống), đến khâu thực hiện cũng sẽ gặp muôn vàn khó khăn. Hiện nay, mỗi đề tài cấp trường ở đại học Khoa học tự nhiên TP.HCM được cấp 10 đến 20 triệu đồng trong thời gian sáu tháng đến một năm. Với số tiền đó thì làm được gì? Mua được mấy cuốn sách, mấy tài liệu, đi dự được mấy hội nghị? Nói gì đến thiết bị, đến thí nghiệm, đến đi khảo sát thực tế! Nói gì đến mô phỏng, tính toán hiệu năng cao! Hệ quả là những kết quả tương xứng và cách làm mang tính đối phó, hợp thức hoá đề tài nhiều hơn là làm đề tài. Tệ hại hơn, cách làm đó tiếp tục được lặp lại ở đề tài cấp đại học quốc gia, cấp sở, cấp bộ, dù số tiền có cao hơn, “hoành tráng” hơn.

    Bệnh xuề xoà

    Và nguyên nhân để các đề tài nghiên cứu khoa học không đến đâu đó tiếp tục được phê duyệt, tiếp tục được đầu tư là do chúng ta quá dễ dãi ở khâu cuối cùng: khâu nghiệm thu. Ở đây có thể phân tích sự dễ dãi của những người tham gia nghiệm thu có ba nguyên nhân chính: 1) họ không phải là người am hiểu lĩnh vực chuyên môn của đề tài nên chỉ đánh giá chung chung, ba phải; 2) họ chặc lưỡi “Ôi dào, đề tài có 20 triệu thì làm thế được rồi”; 3) họ cùng cạ với chủ nhiệm đề tài, theo kiểu “anh dễ với tôi thì sau này tôi sẽ dễ với anh”. Cho dù thế nào thì kết quả cuối cùng là đề tài được nghiệm thu và sau đó đa phần là… xếp xó.

    Căn bệnh dễ dãi, xuề xoà này thực sự rất tai hại. Nó tiêu tốn thời gian của các “nhà khoa học”, tiêu tốn tiền của của Nhà nước, của nhân dân. Nó còn cản đường những nhà khoa học chân chính nhưng lại ít biết những “đường đi nước bước”, không rành thủ tục. Nó còn lây lan sang các đánh giá học thuật, tạo ra các luận văn tốt nghiệp đại học và luận văn thạc sĩ toàn điểm mười. Nó khiến chúng ta mơ ngủ trên các “thành tựu khoa học” của mình, của học trò mình, để rồi khi ra bên ngoài, hoà nhập với thế giới mới biết mình chỉ là “những dòng sông đã lâu không ra được biển rộng”.
     
  4. SteelMan

    SteelMan Moderator

    Tham gia ngày:
    9/8/12
    Bài viết:
    253
    Đã được thích:
    5
    Điểm thành tích:
    18
    Kỳ cuối: Thiếu đồng bộ

    Sự thiếu đồng bộ trong đầu tư cho nghiên cứu khoa học có thể thấy ở khắp nơi, khắp các lĩnh vực và hầu như khắp các công đoạn trong quy trình phức tạp để có được một công trình khoa học chất lượng.

    Người rẻ hơn máy?
    Trong các hạng mục đầu tư, đầu tư cho cơ sở vật chất và máy móc thường tốn kém nhất nhưng lại được phê duyệt dễ dàng nhất. Các chi phí khác như mua sách báo, tài liệu, chi phí đào tạo, chi phí mời chuyên gia, chi phí tham dự hội nghị quốc tế thường khó khăn hơn nhiều. Cơ sở vật chất và máy móc có trước nhưng người làm việc và sử dụng được những máy móc đó một cách hiệu quả lại không có. Và hệ quả tất yếu là nhiều phòng làm việc không ai ngồi, nhiều máy móc không ai dùng đến. Mà cơ sở vật chất và nhất là máy móc thì xuống cấp hàng ngày, hàng giờ và có thể mất hết giá trị chỉ sau ba – năm năm.

    Chúng ta đang sống trong thời đại công nghiệp, thời đại của nền kinh thế tri thức. Thế nhưng, thời gian của chuyên gia lại được đánh giá quá thấp. Từ đây mới dẫn đến những câu chuyện rất đáng suy ngẫm: nhiều giáo sư nước ngoài bỏ hàng ngàn đô để mua vé sang nói chuyện và giảng dạy tại Việt Nam, nhưng khung lương mà chúng ta có thể trả cho họ vẫn chỉ vài triệu đồng cho một tuần giảng dạy. Chúng ta có thể lãng phí hàng chục triệu đồng, thậm chí hàng trăm triệu đồng cho việc đi lại, ăn uống, tổ chức nhưng tiền thù lao cho báo cáo viên, cho giám khảo, cho các chuyên gia bao giờ cũng khiêm tốn đến chạnh lòng. Năm 2007, hơn 70 chuyên gia hàng đầu của Việt Nam từ nhiều quốc gia đã về nước để làm giám khảo cho kỳ thi toán quốc tế lần thứ 48, lần đầu tiên tổ chức tại Việt Nam (IMO 2007). Và thù lao cho một tuần làm việc vất vả và căng thẳng của họ chỉ là 3 triệu đồng! Theo GS Ngô Việt Trung, viện trưởng viện Toán học và là thành viên cốt cán của ban tổ chức IMO 2007 thì chi phí cho công tác chuyên môn (một trong những công tác quan trọng nhất đối với một kỳ thi) chiếm chưa đến 5% tổng chi phí.

    Sự thiếu đồng bộ còn thể hiện ở quá trình theo dõi một đề tài, một dự án. Thường khâu khó khăn nhất chỉ là khâu phê duyệt đề tài. Có thể nói tất cả “tài năng” và “tâm huyết” của chủ nhiệm đề tài và các cộng sự chủ yếu được dồn vào nhiệm vụ thuyết minh đề tài thế nào để được phê duyệt, cấp kinh phí. Còn sau đó đề tài được thực hiện thế nào, tiến độ và chất lượng ra sao thì nói chung ít ai quan tâm, kiểm soát. Và, như đã đề cập, dự án nào, đề tài nào rồi cũng sẽ được nghiệm thu, được “hạ cánh an toàn”. Không đồng bộ ở khâu kiểm soát đề tài, dự án, chúng ta đã tiếp tục lãng phí cho các đầu tư không hiệu quả, tiếp tay cho những hình thức “hợp thức hoá” đầu tư của nhà nước, của nhân dân.

    Hội chứng thích cô đơn?
    Vấn đề hợp tác liên ngành cũng là một biểu hiện của sự đầu tư thiếu đồng bộ. Chúng ta cũng rất thiếu các dự án nghiên cứu liên ngành. Các vấn đề của toán học, cơ học, vật lý, hoá học, sinh học, môi trường, thuỷ điện – thuỷ lợi được giải quyết một cách riêng lẻ, đầu tư một cách riêng lẻ. Điều này dẫn đến những đề tài xa rời thực tế của toán học và những đề tài thiếu một nền tảng và mô hình toán học vững chắc của các ngành khoa học thực nghiệm. Hai bên đều thiếu nhưng không biết tìm đến nhau, mà có biết tìm đến nhau thì cũng gặp khó khăn để có tiếng nói chung do những cơ chế hành chính và tài chính. Rất mừng là gần đây đã có nhiều lãnh đạo của các viện nghiên cứu ứng dụng nhìn thấy vấn đề này và đã đặt vấn đề hợp tác. Nhưng con đường đi từ mong muốn đến thực tế thực hiện được còn rất xa, vì thực sự chúng ta còn rất xa lạ với các hợp tác liên ngành.

    Vừa qua, giới khoa học nói chung và giới toán học nói riêng rất phấn khởi với sự kiện GS Ngô Bảo Châu đạt huy chương toán học Fields danh giá. Tiếp đó, họ lại càng phấn khởi khi nghe tin Chính phủ đã phê duyệt chương trình trọng điểm phát triển toán học 2010 – 2020 với tổng số tiền đầu tư lên tới 651 tỉ đồng. Chưa bao giờ toán học được ưu ái đến thế. Tuy nhiên, sau những hồ hởi ban đầu, chúng ta lại tiếp tục lo lắng: liệu chúng ta có biết cách sử dụng số tiền đầu tư tương đối lớn đó không? Và liệu toán học có tìm được tiếng nói chung với các ngành khoa học khác để cùng phát triển toàn diện và đồng bộ được hay không? Bởi vì suy cho cùng, có tiền là một chuyện, biết sử dụng tiền thế nào cho hiệu quả là một chuyện khác.
    TS Trần Nam Dũng
     

Chia sẻ trang này